VNM (Cổ phiếu VNM) là doanh nghiệp sữa số 1 Việt Nam về thị phần, quy mô sản xuất, hệ thống phân phối.
Đồ thị cổ phiếu VNM phiên giao dịch ngày 08/03/2019. Nguồn: AmiBroker
Ngành và vị thế doanh nghiệp
Ngành thực phẩm là ngành hàng tiêu dùng thiết yếu, hiện đang chiếm tỷ lệ cao nhất (35%) trong cơ cấu chi tiêu hàng tháng của người tiêu dùng (VietNam Report, 2018). Tốc độ tăng trưởng ngành luôn ổn định ở mức cao CAGR ~ 10.4% giai đoạn 2014 – 2018, đạt quy mô ~ 30 tỷ USD. Động lực tăng trưởng ngành được thúc đẩy bởi (1) quy mô dân số lớn, (2) thu nhập người tiêu dùng liên tục được cải thiện và (3) cơ cấu dân số trẻ.
Ngành thực phẩm đồ uống đang có hiện tượng tăng trưởng yoy chậm lại trong 2017-2018, đặc biệt có những quý tăng trưởng âm giai đoạn nửa đâu năm 2018. Nguyên nhân của sự giảm tốc này là do các doanh nghiệp trong ngành chưa triển khai mạnh các chiến lược hiệu quả để nắm bắt sự chuyển dịch trong hành vi của người tiêu dùng như xu hướng tiêu dùng hàng cao cấp, xu hướng trải nghiệm mua hàng đa kênh.
VNM là doanh nghiệp sữa số 1 Việt Nam về thị phần, quy mô sản xuất, hệ thống phân phối.
Mô hình kinh doanh
Doanh thu VNM chủ yếu đến từ thị trường nội địa (85%) với hơn 250 sản phẩm sữa trên tất cả các phân khúc: sữa đặc, sữa nước, sữa chua, sữa bột. Nguồn nguyên liệu trong nước đến từ đàn bò 120,000 con chiếm khoảng 40%, còn lại VNM nhập khẩu bột sữa. Sản phẩm VNM được phân phối tới các hệ thống bán lẻ với hơn 240,000 điểm bán lẻ.
Mặc dù VNM đã có giai đoạn tăng trưởng rất ấn tượng 2012 – 2017 với CAGR DT ~13.5%/năm, CAGR LNST ~ 12%/năm, biên LNST ổn định ở mức ~20%. Tuy nhiên, tăng trưởng ngành sữa nói chung và VNM nói riêng đang có hiện tượng chậm lại bởi:
- Những thay đổi trong hành vi người tiêu dùng: xu hướng tiêu dùng hàng cao cấp, xu hướng trải nghiệm mua hàng đa kênh (OMNI channel), xu hướng cá nhân hóa xuất phát từ nguyên nhân thu nhập tăng cao, ý thức tốt hơn về sức khỏe, mức độ sử dụng internet và smartphone cao. Các doanh nghiệp lớn trong ngành sữa như VNM sẽ cần thời gian để thích ứng với sự thay đổi này và thị phần, biên LN trong giai đoạn này đều bị ảnh hưởng.
- Áp lực giảm thị phần và biên LN không chỉ đến từ mức độ cạnh tranh khốc liệt trong ngành sữa nội địa mà còn từ sự cạnh tranh ngày càng gia tăng từ nhóm hàng nhập khẩu khi hàng loạt các FTA có hiệu lực từ 2018 và CTPPP có hiệu lực từ 2019 với mức thuế nhập khẩu nhiều mặt hàng sữa giảm về 0%.
VNM đang có những hướng đi để giải quyết cho bài toán tăng trưởng của mình:
- Thị trường nội địa: Phát triển các dòng sản phẩm cao cấp hơn (organic, A2, sữa hạt,…), quảng cáo online và phát triển kênh bán hàng thương mại điện tử tuy nhiên chưa mang lại kết quả rõ rệt.
- Xuất khẩu: Mặc dù tỷ trọng xuất khẩu hiện tại của VNM vẫn còn thấp (9%, chủ yếu sang Trung Đông) trong tổng doanh thu nhưng trong bối cảnh thị phần nội địa đã lớn, khó có thể tăng, VNM đã bắt đầu đẩy mạnh hoạt động đầu tư ra nước ngoài (Campuchia, Myanmar) và tìm kiếm thị trường xuất khẩu mới (Trung Quốc).
Triển vọng tương lai
Triển vọng dài hạn của ngành sữa Việt Nam vẫn tích cực nhờ thị trường nội địa còn dư địa tăng trưởng lớn (được dự báo tăng trưởng ~ 10% giai đoạn 2018-2021) nhờ:
- Quy mô dân số lớn (hơn 95 triệu dân), tăng trưởng hằng năm 1.03%, trong đó 25% (khoảng 24 triệu) nhỏ hơn 15 tuổi là lứa tuổi tiêu thụ sữa nhiều nhất. Thu nhập của người dân được cải thiện khiến họ quan tâm tới các sản phẩm dinh dưỡng nhiều hơn.
- Tỷ lệ tiêu thụ sữa bình quân đầu người Việt Nam vẫn còn thấp (26l/người/năm) so với các quốc gia trong khu vực và trên thế giới.
Triển vọng thị trường xuất khẩu cũng rất hứa hẹn:
- Thị trường Đông Nam Á: Doanh thu tại thị trường Campuchia tăng 148% (yoy) trong 2018 sau khi VNM quyết định đầu tư xây dựng nhà máy tại đây. VNM cũng đã phê duyệt chủ trương cho việc đầu tư vào Myanmar trong 2019. Tỷ lệ tiêu thụ sữa bình quân đầu người của thị trường này vẫn còn thấp (10l/người/năm) và cơ cấu dân số trẻ (27% < 15 tuổi) nên vẫn còn nhiều dư địa cho VNM phát triển.
- Thị trường TQ: TQ đã soạn thảo xong Nghị định thư để nhập khẩu chính thức sữa từ Việt Nam và dự kiến giữa 2019. Đây là thị trường lớn với 1.4 tỷ dân nhưng cũng rất cạnh tranh, VNM sẽ có cơ hội tại những thị trường ngách như sữa chua do người tiêu dùng trong nước mất niềm tin vào sản phẩm nội địa và VNM có ưu thế về chi phí vận chuyển so với Australia và New Zealand là 2 quốc gia đang chiếm thị phần lớn trên thị trường sữa TQ.
Để khai thác được tiềm năng của ngành, triển vọng tương lai của VNM phụ thuộc lớn vào (1) mức độ và tốc độ thích ứng với sự thay đổi trong hành vi của người tiêu dùng bằng việc dịch chuyển sang các dòng sản phẩm cao cấp hơn (organic, A2, sữa hạt,…) và xây dựng được chương trình quảng cáo online hiệu quả; và (2) khả năng cạnh tranh không chỉ với các DN nội địa, mà còn phải giữ vững thị phần trước hàng nhập khẩu và các ông lớn FDI đang có KH đầu tư trực tiếp vào VN; (3) khả năng tận dụng tiềm lực thương hiệu và dòng tiền dồi dào để mở rộng đầu tư trực tiếp ra nước ngoài hoặc M&A để nhanh chóng phát phát triển thị trường.
Trong ngắn hạn, những diễn biến tiêu cực của tốc độ tăng trưởng DT-LN đã dần giảm bớt nhờ các nỗ lực chuyển đổi của VNM. VNM cũng đã từng thành công trong giai đoạn 2013-2014 khi thị trường thành thị bão hòa và chiến lược mới là phát triển vùng nông thôn. Dự báo, VNM sẽ mất ít nhất 1 năm tới để tốc độ tăng trưởng hồi phục trở lại.
Sức khỏe tài chính
Tỷ lệ nợ/tổng tài sản thấp cho thấy cơ cấu tài sản lành mạnh
Do đặc thù HĐKD, VNM sở hữu lượng tiền mặt dồi dào để sẵn sàng đầu tư (xây nhà máy, M&A), các chỉ số thanh toán đều ở mức cao.
Chỉ số CFO/LN ròng luôn dương cho thấy chất lượng LN tốt.
Dự báo LNST của cổ đông công ty mẹ 2019 – 2020 đạt 10,677 – 11,014 tỷ tương đương EPS là 5,518 – 5,692đ/cp.
Nguồn: HSC