Nhận định vĩ mô tóm tắt – Tỷ giá USD/VND tự do tăng nhẹ và chạm 23.010. Sau khi tỷ giá các nước trong khu vực tăng – tỷ giá USD/VND tự do hôm nay ở vào 23.010; tăng 1,3% so với đầu năm và tăng 1,46% so với cùng kỳ.
Tỷ giá USD/VND tự do lần đầu tiên chạm mốc trên hôm qua, là mốc cao nhất từ đầu năm do:
Lo ngại khả năng leo thang mâu thuẫn thương mại Mỹ – Trung Quốc, vốn là nguyên nhân khiến đồng CNY giảm mạnh so với đồng USD 2 ngày vừa qua.
Kỳ vọng đồng USD sẽ tiếp tục mạnh lên so với hầu hết các đồng tiền khác do chính sách nâng dẫn lãi suất của Fed.
Chênh lệch giữa tỷ giá USD/VND tự do và liên ngân hàng tăng lên 0,72%; là mức cao nhất kể từ ngày 7/2/2017. Tuy nhiên mức này chưa đáng lo ngại nhưng cũng cần theo dõi sát.
Tỷ giá USD/VND tự do có vẻ theo sát chỉ số đô la ICE (mã DXY). Chỉ số này đã tăng 1,34% từ lần nâng lãi suất gần đây nhất của Mỹ, từ mốc 93,54 vào hôm thứ 4 lên 94,79 vào ngày hôm nay. HSC cho rằng đồ thị “dot plot” cho thấy khả năng Fed sẽ có nhiều đợt nâng lãi suất hơn trước (chỉ ra 4 lần nâng lãi suất trong năm nay thay vì 3 lần như trước đây) công bố tuần trước là nguyên nhân dẫn đến những biến động gần đây. Thêm vào đó là lo ngại áp lực bán ròng của khối ngoại trên thị trường chứng khoán cũng như một cuộc chiến tranh thương mại đang leo thang giữa Mỹ và Trung Quốc.
Nhìn vào lịch sử diễn biến giữa tỷ giá USD/VND tự do và liên ngân hàng; thì có thể nói tỷ giá USD/VND tự do có vai trò cảnh báo sớm. Nếu tỷ giá USD/VND tự do tăng, thì chúng tôi cho rằng NHNN sẽ chưa can thiệp cho đến khi chênh lệch giữa tỷ giá USD/VND tự do và liên ngân hàng nới rộng lên 1,5-2%. Có thể lấy ví dụ vào cuối năm 2016, khi chênh lệch giữa tỷ giá USD/VND tự do và liên ngân hàng nới rộng lên mức trên. Khi đó, NHNN đã bình ổn thị trường tự do bằng cách (1) bơm thêm USD vào thị trường liên ngân hàng. Chúng tôi ước tính NHNN đã bán khoảng 1,1 tỷ USD từ dự trữ ngoại hối. Đồng thời (2) hoãn áp dụng Thông tư 24/2015/TT-NHNN hạn chế vay USD. Và các biện pháp can thiệp đã có tác dụng sau vài tuần.
Tỷ giá USD/VND liên ngân hàng đã tăng nhẹ 0,59% so với đầu năm (và tăng 0,73% so với cùng kỳ) lên 22.845 – Tỷ giá USD/VND liên ngân hàng vẫn trụ khá vững. Từ đầu năm, tỷ giá USD/VND liên ngân hàng mới chỉ tăng 0,59%. Nghĩa là mức tăng giá của đồng USD so với đồng VND trên thị trường liên ngân hàng tại Việt Nam ở mức không cao nếu so với mức tăng so với các đồng tiền lớn khác trên thế giới, ở vào 0,5-2%. Trong khi đó đồng tiền của các nền kinh tế mới nổi giảm mạnh so với USD, cụ thể:
Đồng Rupiah của Indonesia giảm 4,7% từ đầu năm và giảm 6,25% so với cùng kỳ.
Đồng Rupia của Ấn Độ giảm 6,35% từ đầu năm và giảm 5,3% so với cùng kỳ.
Đồng Peso của Philippine giảm 6,64% từ đầu năm và giảm 6,32% so với cùng kỳ.
Đồng lira của Thổ Nhĩ Kỳ giảm 19,37% từ đầu năm và giảm 25,21% so với cùng kỳ.
Đồng Peso của Argentina giảm 32,57% từ đầu năm và giảm 41,54% so với cùng kỳ.
Sự khác biệt ở đây theo chúng tôi là do các yếu tố kinh tế vĩ mô. Việt Nam có (1) tăng trưởng GDP cao (chúng tôi dự báo GDP tăng trưởng 6,7% trong năm nay và 6,5% trong năm sau); (2) lạm phát vẫn thấp (chúng tôi dự báo lạm phát năm nay là 4,3% và năm sau là 4,5%); và (3) thặng dư tài khoản vãng lai (chúng tôi dự báo thặng dư 3,9% GDP trong năm nay và 2,1% GDP trong năm sau). Theo đó Việt Nam nằm trong nhóm có triển vọng kinh tế vĩ mô tốt nhất trong số các nền kinh tế sơ khai và mới nổi.
Nợ bằng ngoại tệ ở mức vừa phải – Điều không kém phần quan trọng là mức nợ bằng ngoại tệ của chính phủ và doanh nghiệp Việt Nam ở mức vừa phải. Theo ước tính chính thức mới nhất, nợ bằng ngoại tệ của chính phủ và có liên quan đến chính phủ là khoảng 41,4 tỷ USD, bằng 21,7% GDP tính tại thời điểm cuối năm 2015. Phần lớn là nợ ODA, là các khoản vay ưu đãi. Trong khi đó nợ của khối tư nhân gồm cả DNNN, doanh nghiệp tư nhân và tổ chức tài chính là khoảng 41,2 tỷ USD tại thời điểm cuối 2015. Chúng tôi không có con số chính thức sau thời điểm trên. Tuy nhiên chúng tôi thấy nợ nước ngoài không tăng nhiều trong những năm gần đây nên số liệu trên theo chúng tôi sẽ không thay đổi nhiều.
Đến hiện tại, NHNN không cần thiết phải đưa ra bất kỳ can thiệp nào tỷ giá và chúng tôi giữ nguyên dự báo tiền đồng sẽ giảm giá khoảng 2% trong năm nay. Do:
1. Việt Nam vẫn thu hút dòng vốn USD đáng kể – đến từ giải ngân vốn FDI với ước tính đạt 20,1 tỷ USD trong năm 2018, tương đương 12,9% GDP; Kiều hối ước đạt 10,42 tỷ USD, tương đương 4,3% GDP, vốn ODA là 3,5 tỷ USD, tương đương 1,5% GDP, thặng dư thương mại ước tính đạt 3,6 tỷ USD, tương đương 1,5% GDP.
2. Lượng dự trữ ngoại tệ của Việt Nam tăng – từ 37,7 tỷ USD vào đầu năm 2018 lên 63,5 tỷ USD vào cuối tháng trước. Dự trữ ngoại tệ tương đương hơn 3 tháng xuất khẩu, tăng từ mức 2,5 tháng vào cuối năm 2016.
Chênh lệch lãi suất cần được theo dõi – Trong khi mức vay ngoại tệ thấp và triển vọng kinh tế vĩ mô khả quan thì rủi ro chính trong tương lai là sự chênh lệch lãi suất ngày càng lớn giữa Mỹ và Việt Nam.
Chênh lệch lãi suất giữa USD và VND đảo chiều – Lãi suất tiền gửi bằng VND kỳ hạn 1 tháng hiện thấp hơn khoảng 0,3% so với lãi suất tiền gửi bằng USD kỳ hạn 1 tháng ở nước ngoài. Trong năm ngoái, lãi suất tiền gửi bằng VND kỳ hạn 1 tháng cao hơn khoảng 0,6%-3% so với lãi suất tiền gửi bằng USD kỳ hạn 1 tháng ở nước ngoài và đây là mức dao động thông thường. Tuy nhiên, chênh lệch này đã đảo chiều trong năm nay. Lãi suất tiền gửi bằng USD ở nước ngoài tăng mạnh lên 2,1%-2,15% hôm nay, tăng 0,55%-0,6% so với đầu năm và tăng 0,9%-0,95% so với cùng kỳ. Đây là mức lãi suất cao nhất kể từ năm 2008. Trong khi đó lãi suất tiền gửi bằng VND kỳ hạn 1 tháng giảm mạnh xuống 1,6%-1,85%, giảm 1%-1,2% so với đầu năm và giảm 2%-2,2% so với cùng kỳ.
Nếu lãi suất tiền gửi bằng VND kỳ hạn 1 tháng vẫn thấp hơn lãi suất tương đương bằng USD, điều này sẽ tạo áp lực lên hệ thống ngân hàng trong 6 tháng cuối năm và ảnh hưởng đến dòng vốn chảy vào Việt Nam. Đặc biệt là với khả năng Fed sẽ tăng lãi suất thêm hai lần nữa trong năm 2018 và 3 lần trong năm 2019.
Chênh lệch lợi suất trái phiếu thu hẹp nhưng vẫn trong mức thông thường – Chênh lệch giữa lợi suất trái phiếu bằng VND kỳ hạn 10 năm và lợi suất trái phiếu bằng USD kỳ hạn 10 năm giảm, từ 3,7% vào cuối năm 2016 xuống 1,83% hôm nay. Chênh lệch lợi suất này giảm xuống chỉ 1,19% vào 3 tháng trước và sau đó tăng trở lại. Tác nhân chính là do lợi suất trái phiếu bằng USD kỳ hạn 10 năm đã tăng dần trong thời qua, từ 2,4% vào cuối năm 2017 lên 2,89% hôm nay và thậm chí tăng vượt ngưỡng 3% vào một vài tuần trước. Trong khi đó lợi suất trái phiếu bằng VND kỳ hạn 10 năm giảm từ 5,14% vào cuối năm 2017 xuống 4,73% hôm nay.
HSC cho rằng để trái phiếu mệnh giá VND thu hút nhà đầu tư, chênh lệch lợi suất trái phiếu kỳ hạn 10 năm giữa mệnh giá VND và USD ít nhất là 2%. Và chênh lệch hiện tại vẫn dưới mức này và do đó trong hiện tại đây không phải là yếu tố quan trọng.
HSC giữ nguyên dự báo tiền đồng giảm giá 2% so với USD trong năm nay. Tuy nhiên, dự báo của chúng tôi dựa trên giả định chỉ số đô la ICE dao động 94-97 vào cuối năm nay. Nếu chỉ só này tăng trên 97, khi đó NHNN có thể phải chủ động hơn để bảo vệ tiền đồng. Bằng cách bơm thêm USD vào hệ thống liên ngân hàng hoặc có thể là yêu cầu điều chỉnh tăng lãi suất ngắn hạn.
Thị trường chứng khoán chịu tác động gián tiếp nhưng chỉ trong hiện tại – Những biến động về tỷ giá không đủ để ảnh hưởng trực tiếp đến tâm lý NĐT trên thị trường chứng khoán, tuy nhiên thị trường vẫn chịu tác động từ (1) lo ngại về căng thẳng chiến tranh thương mại hiện tại và (2) dòng vốn ngoại rút khỏi thị trường chứng khoán.
Chúng tôi vẫn cho rằng tỷ giá USD/VND tăng ít hơn 2% sẽ không khiến thị trường lo ngại. Chỉ khi tỷ giá tăng hơn 2% trong 1 năm nhất định thì dòng vốn nước ngoài chảy vào thị trường sẽ bắt đầu bị ảnh hưởng. Và mặc dù lo ngại của thị trường chắc chắn đã tăng lên trong những tuần gầy đây thì chúng tôi vẫn cho rằng đây chưa phải là trở ngại lớn của thị trường trong hiện tại.
Thị trường chứng khoán châu Á & các đồng tiền chính – Thị trường chứng khoán châu Á giảm mạnh hôm nay khi thị trường Phố Wall cũng giảm vào hôm thứ 2. Về các đồng tiền, đồng USD mạnh lên và một lần nữa dao động chỉ dưới ngưỡng kháng cự quan trọng so với giỏ các đồng tiền tính theo tỷ trọng thương mại (chỉ số đô la ICE ở vào 94,924). So với đồng USD, đồng Euro yếu đi (tỷ giá EUR/USD ở vào 1,1560); đồng Bảng Anh giảm xuống dưới mức hỗ trợ trung hạn (tỷ giá GBP/USD ở vào 1,3189); đồng Yên mạnh lên (tỷ giá USD/JPY ở vào 109,69); trong khi đó đồng NDT giảm mạnh ngày thứ hai liên tiếp (tỷ giá USD/CNY ở vào 6,4720).
Giá dầu giảm – Giá dầu giảm hôm nay với giá dầu WTI trên hợp đồng tương lai ở vào 65,30 USD/thùng vào cuối thời gian giao dịch trên thị trường châu Á. Giá dầu tiếp tục biến động theo những chiêu bài trước phiên họp sắp tới của OPEC cũng như lo ngại về căng thẳng chiến tranh thương mại giữa Trung Quốc và Mỹ (có thể ảnh hưởng đến nhu cầu trong tương lai).
OPEC & các đồng minh đã có những cuộc đàm phán căng thẳng trước phiên họp sắp diễn ra vào ngày 23/6 tới tại Vienna. Vấn đề được thảo luận ở đây là khả năng tăng nguồn cung thêm 300.000-600.000 thùng/ngày ra thị trường thế giới trong vài tháng tới. Đây có lẽ là thỏa hiệp giữa hai bên gồm một bên là Saudi Arabia & Nga (muốn tăng sản lượng nhiều hơn mức 300.000-600.000 thùng/ngày) và một bên là Iran; Iraq và Venezuela (không muốn tăng sản lượng). Điểm mấu chốt ở đây là ba nước này cùng với Saudi Arabia & Kuwait là 5 quốc gia sáng lập của OPEC, do đó tầm ảnh hưởng sẽ không chỉ nằm ở quy mô khai thác đơn thuần.
Chưa có dấu hiệu về một sự thống nhất trên thực tế. Do mức tăng sản lượng 300.000-600.000 thùng/ngày thấp hơn nhiều yêu cầu tăng 1,5 triệu thùng/ngày của Nga nên hiện chưa biết phản ứng của các bên sẽ ra sao. Cụ thể là Saudi Arabia sẽ phải đưa ra quyết định khó khăn. Đó là lựa chọn duy trì sự đoàn kết của OPEC và chấp nhận mức tăng sản lượng khiêm tốn hay quyết định hình thành liên minh mới với một quốc gia xuất khẩu dầu mỏ lớn khác là Nga, và theo đó đẩy mạnh khai thác quyết liệt hơn. Vẫn luôn có khả năng cho một phương án thường thấy của OPEC, là thỏa thuận mức tăng sản lượng thấp hơn nhưng không thực hiện một cách thực sự nghiêm ngặt.
Tin vĩ mô thế giới – Rất nhanh chóng, Tổng thống Trump đang dọa áp thuế tiếp 200 tỷ USD hàng nhập khẩu từ Trung Quốc. Đồng thời cảnh báo sẽ tiếp tục có các biện pháp trả đũa động thái từ phía Trung Quốc. Bộ trưởng ngoại giao Mỹ Pompeo đêm qua cũng đã tham gia cuộc khẩu chiến. Có vẻ như Mỹ sẽ tiếp tục làm căng cuộc xung đột thương mại cho đến khi diễn ra các cuộc bầu cử giữa nhiệm kỳ vào tháng 11.
Thị trường chứng khoán thế giới ngày càng phản ánh mạnh mẽ sự gia tăng xung đột thương mại giữa Trung Quốc và Mỹ. Chẳng hạn chỉ số Shanghai Composite đã giảm hơn 3,5% hôm nay xuống đáy 2 năm. ZTE nằm ở tâm bão với giá cổ phiếu giảm một ngày sau khi các nghị sĩ Mỹ thông qua luật tái áp đặt trừng phạt với công ty này.
Nhân tố có ảnh hưởng lớn hơn trong trung hạn là sự chênh lệch về mặt bằng lãi suất giữa các nền kinh tế trên thế giới. Số liệu kinh tế tại khu vực EU và Trung Quốc trong những tháng gần đây kém khả quan. Bên cạnh đó đường cong lợi suất tại một số thị trường trái phiếu chủ chốt trên thế giới duỗi thẳng. Việc Mỹ đảo ngược còn EU dự kiến thu hẹp QE khiến mọi việc trở nên phức tạp hơn. Đường cong lợi suất tại Mỹ cũng duỗi thẳng nhưng mức độ duỗi thẳng nhẹ hơn nhờ có nền kinh tế tăng trưởng mạnh. Nền kinh tế Mỹ tăng trưởng mạnh cộng với KQKD của các doanh nghiệp khả quan và hoạt động mua lại cổ phiếu quỹ đã hỗ trợ thị trường chứng khoán Mỹ cho đến nay.
Trên thực tế, bị ảnh hưởng chủ yếu ở đây là các nền kinh tế mới nổi, nơi mà mức độ rút vốn của NĐT trong những tháng gần đây mạnh nhất kể từ 2008. Cho đến nay, hoạt động rút vốn tại các nền kinh tế mới nổi không có sự phân hóa giữa nền kinh tế tăng trưởng mạnh và nền kinh tế tăng trưởng kém. Điều này phản ánh một thứ gì đó sâu xa hơn, đó là đã có sự phân bổ lại dòng vốn khi mà thời kỳ vốn rẻ chấm dứt. Điều này có liên quan đến chu kỳ tài chính thế giới. Một đặc điểm của hoạt động này là sự điều chỉnh mặt bằng P/E của các thị trường chứng khoán mới nổi về mức bình quân dài hạn. Điều này là do sự giảm xuống của phần bù thanh khoản với các thị trường mới nổi luôn dẫn đầu xu hướng.
NHTW Trung Quốc PBOC hôm nay đã bất ngờ bơm 200 tỷ CNY cho các tổ chức tài chính thông qua công cụ cho vay trung hạn (MLF) nhằm ổn định thị trường. Đây là động thái bất ngờ vì chưa có khoản vay MLF nào đáo hạn và có thể đây là nỗ lực làm tăng niềm tin. Chúng tôi thấy rằng gần đây Trung Quốc đã có động thái nhằm ổn định tình hình tại HNA (đang đối mặt với tỷ lệ nợ cao). Trung Quốc đang cố gắng giảm thanh khoản dư thừa trong hệ thống tài chính và giảm tỷ lệ nợ trong hơn 1 năm qua. Tuy nhiên số liệu kinh tế kém khả quan gần đây cộng với lo ngại chiến tranh thương mại đang làm phức tạp tình hình.
Nguồn: Research HSC