DANH MỤC

Mobile / Zalo: 0989 490 980
Vay Margin tại HSC tỉ lệ 1:4

Lịch sử hình thành và phát triển của TTCK

Lượt xem: 21,833 - Ngày:

TTCK được xem là đặc trưng cơ bản, là biểu tượng của nền kinh tế hiện đại. Người ta có thể đo lường và dự tính sự phát triển kinh tế qua diễn biến trên TTCK. Là một bộ phận cấu thành của thị trường tài chính, TTCK, được hiểu một cách chung nhất, là nơi diễn ra các giao dịch mua bán, trao đổi các chứng khoán- các hàng hóa và dịch vụ tài chính giữa các chủ thể tham gia. Việc trao đổi mua bán này được thực hiện theo những quy tắc ấn định trước.
Hình thức sơ khai của TTCK đã xuất hiện cách đây hàng trăm năm. Vào thế kỷ thứ 15, ở các thành phố trung tâm thương mại của các nước phương Tây, trong các phiên chợ hay hội chợ, các thương gia tập trung tại các quán cà phê để thương lượng mua bán, trao đổi hàng hóa. Đặc điểm của hoạt động này là các thương gia chỉ trao đổi bằng lời nói với nhau về các hợp đồng mua bán mà ko có sự xuất hiện của bất cứ hàng hóa, giấy tờ nào. Đến cuối thế kỷ 15, “khu chợ riêng” đã trở thành thị trường hoạt động thường xuyên với những quy ước xác dịnh cho các cuộc thương lượng. Những quy ước này dần trở thành các quy tắc có tính chất bắt buộc đối với các thành viên tham gia.
Buổi họp đầu tiên diễn ra vào năm 1453 tại một lữ quán của gia đình Vanber tại thành phố Bruges (Vương quốc Bỉ). Trước lữ quán có một bảng hiệu vẽ hình ba túi da và chữ Bourse. Ba túi da tượng trưng cho ba nội dung của thị trường: Thị trường hàng hóa; Thị trường ngoại tệ và Thị trường chứng khoán động sản; còn chữ Bourse có nghĩa là “mậu dịch thị trường” hay còn gọi là “nơi buôn bán chứng khoán”.
Đến năm 1547, thị trường ở thành phó Bruges bị sụp đổ do cửa biển Evin – nơi dẫn các tàu thuyền vào buôn bán tại thành phố bị cát biển lấp mất.
Tuy nhiên, vào năm 1531, thị trường này được dời tới thành phố cảng Anvers (Bỉ), từ đó, thị trường này phát triển nhanh chóng. Tuy vậy, ở thị trường chứng khoán đầu tiên này không hề có cổ phiếu.
Thay vì mua bán cổ phiếu công ty (những thứ khi ấy còn chưa tồn tại), người môi giới và cho vay tập trung lại đây để giao dịch các món nợ của công ty, chính phủ và thậm chí cả cá nhân.
Mọi chuyện thay đổi vào những năm 1600, khi cả Anh, Pháp và Hà Lan đều cử hạm đội đến Đông Ấn. Do ít nhà thám hiểm trang trải đủ cho một chuyến hải thương, các công ty trách nhiệm hữu hạn được thành lập để huy động tiền từ nhà đầu tư, những người này sẽ được chia lợi nhuận đoàn tương ứng với phần vốn góp.
Hình thức tổ chức kinh doanh này cũng đòi hỏi phải được quản lý rủi ro.
Theo báo Imperial Gazetteer của Ấn Độ, các chuyến hải hành đầu tiên của Anh đến Ấn Độ Dương không thành công, tàu đắm còn tài sản cá nhân của những người đi huy động vốn bị chủ nợ tịch thu.
Điều đó khiến một nhóm thương nhân London lập nên một công ty vào tháng 9/1599, giới hạn trách nhiệm của mỗi thành viên theo số tiền họ đầu tư. Nếu chuyến hải hành thất bại, luật pháp chỉ có thể tịch biên số tiền trên.
Nữ hoàng Anh cho phép nhóm thương nhân này hoạt động trong vòng 15 năm, và đặt tên cho công ty là “Thống đốc và nhóm thương nhân London giao thương với Đông Ấn” (hay đơn giản là “Công ty Đông Ấn”).
Hình thức trách nhiệm hữu hạn đã phát huy tác dụng tốt, cho đến năm 1609, vua James I đã cho phép nhiều công ty thương nghiệp nữa hoạt động và thúc đẩy giao tương tại các quốc gia Châu Âu có bờ biển khác.
Công ty Đông Ấn Hà Lan là công ty đầu tiên cho phép người ngoài mua cổ phiếu ghi danh theo một tỷ lệ nhất định. Họ cũng là công ty đầu tiên phát hành cổ phiếu và trái phiếu ra công chúng qua Sở giao dịch chứng khoán Amsterdam năm 1602.
Một thị trường như vậy cũng được thành lập ở London (Vương quốc Anh) vào thế kỷ 18 và sau đó là một loạt thị trường tại Pháp, Đức, Ý và một số nước Bắc Âu và Mỹ cũng được thành lập. Sau một thời gian hoạt động, thị trường chứng tỏ khả năng ko đáp ứng đc yêu cầu của cả 3 giao dịch khác nhau. Vì thế, thị trường hàng hóa được tách ra và phát triển thành thị trường hối đoái. Thị trường chứng khoán bất động sản trở thành thị trường chứng khoán. Như vậy, TTCK được hình thành cùng thị trường hàng hóa và thị trường hối đoái.

Sở giao dịch chứng khoán London

Sự phát triển nhanh chóng của các công ty phát hành cổ phiếu dẫn tới sự ra đời của Sở giao dịch chứng khoán London.
Đầu tiên, cổ phiếu không được giao dịch tại một tòa nhà nào cả. Thay vào đó, cả bên môi giới lẫn nhà đầu tư gặp nhau ở các quán cà phê khắp London.
Khi ấy, nếu một công ty muốn bán cổ phiếu hay phát hành nợ, họ dán thông báo trên cửa các quán cà phê hay gửi thư tới nhà tài trợ. Đặc biệt, quán cà phê của Jonathan tại Change Alley nổi lên như một tụ điểm giao dịch chứng khoán chính tại London.
Giao dịch phi tập trung tiếp tục phát triển tại các quán cà phê London cho đến khi một đám cháy quét qua Change Alley năm 1748. Một nhóm giao dịch viên giàu có hiến một tòa nhà làm sở giao dịch năm 1773.
Từ đây mở ra một thời gian dài nước Anh tở thành thủ đô tài chính của thế giới. Kể cả khi đã bị Mỹ vượt qua, London vẫn là một trong những trung tâm tài chính trọng yếu.
Người ta cho rằng Sở giao dịch chứng khoán Amsterdam mới là nơi đầu tiên cho phép giao dịch liên tục, bán khống, giao dịch quyền chọn, hoán đổi nợ-cổ phiếu, ngân hàng bán buôn, quỹ tín thác, … như chúng ta biết đến hiện nay.
Bất chấp những cải tiến ấy, Sở giao dịch chứng khoán Amsterdam không bao giờ có được ảnh hưởng trên thế giới tài chính như London hay New York.

Sở giao dịch chứng khoán New York

Năm 1793, Ủy ban Chứng khoán và Giao dịch New York mở cửa tại Phố Wall. Dù không phải là sở giao dịch đầu tiên tại Mỹ, NYSE nhanh chóng trở thành trung tâm tài chính của đất nước non trẻ.
Cũng như tại London, NYSE ban đầu không rộng và nhiều hoạt động phải được tiến hành ở bên ngoài. Địa điểm này bị lửa thiêu rụi nên phải chuyển tới phố Broad và đổi tiên thành Sở giao dịch chứng khoán New York.
NYSE không mất nhiều thời gian để trở thành một trung tâm trong giới tài chính. Khối lượng giao dịch chứng khoán tăng 6 lần trong giai đoạn 1896-1901.
Sự thành công này phần lớn là nhờ địa điểm của sở giao dịch tại thành phố New York, trung tâm của gần như mọi giao dịch và buôn bán của nước Mỹ tại thời điểm đó.
NYSE cũng là sở giao dịch đầu tiên có điều kiện niêm yết và phí, giúp đem lại khoản thu nhập lớn cho sở giao dịch. Trong hơn 200 năm, Sở giao dịch chứng khoán New York luôn giữ vị trí số một.
Giao dịch điện tử
Giao dịch chứng khoán từng được tiến hành thủ công, sử dụng nhiều nhà phân tích theo dõi hoạt động giao dịch và báo cáo giá cổ phiếu cho công chúng. Tuy vậy, đến cuối thế kỷ 20, mọi chuyện thay đổi.
NASDAQ vào năm 1971 là sở giao dịch hoàn toàn điện tử đầu tiên trên thế giới. Thay vì để người bán và người mua nhờ người môi giới xác định giá cổ phiếu, NASDAQ dựng một tấm bảng điện tử lớn niêm yết giá và sự biến động theo thời gian thực.
Kể từ đó, NASDAQ đã phát triển và đưa ra các hệ thống giao dịch tự động cho phép nhà đầu tư tự động mua bán cổ phiếu của mình dựa trên các tiêu chuẩn định trước.
NASDAQ cũng cho ra đời Hệ thống đặt lệnh quy mô nhỏ (SOES), cho phép nhà đầu tư cá nhân đặt lệnh từ 1000 cổ phiếu trở xuống một cách tự động. SOES đã giải quyết vấn đề nhức nhối khi đó, giao dịch nhỏ lẻ thường bị các nhà tạo lập thị trường bỏ qua khi họ đặt lệnh qua điện thoại.
Các chức năng tự động của thị trường hiện nay phần lớn đều bắt nguồn từ phát minh của NASDAQ.

Sự đổ vỡ …

Đương nhiên, dù thị trường chứng khoán tồn tại để giúp đầu tư và kinh doanh thuận tiện hơn, nhưng không phải lúc nào mọi chuyện cũng đúng như kế hoạch. Mọi thị trường chứng khoán đều có nguy cơ phải chịu các vụ đổ vỡ.
Một ví dụ đáng chú ý là Vụ đổ vỡ Phố Wall năm 1929, mở đầu cho thời kỳ Đại suy thoái. Nó bắt đầu ngày 24/10/1929 (giờ được biết đến với cái tên “Ngày thứ năm đen tối”), khi chỉ số Dow Jones Industrial mất 50% giá trị chỉ trong một ngày.
Giá cổ phiếu tiếp tục hạ suốt một tháng sau đó, một đợt sụt giảm chưa từng có làm chấn động thế giới. Nhiều người tin rằng Đại suy thoái chấm dứt chủ yếu nhờ Chiến tranh thế giới thứ hai, nhờ số việc làm tăng và nhu cầu vũ khí đạn dược.
Một vụ đổ vỡ nữa xảy đến với thị trường toàn cầu vào năm 1973-74. Chỉ số FT30 của Sở giao dịch chứng khoán London (khi ấy tương đương với chỉ số Dow Jones) mất 73% giá trị, khiến đồng đô la Mỹ mất giá và làm cuộc khủng hoảng dầu lửa 1973 thêm tồi tệ.
Không phải vụ đổ vỡ toàn cầu nào cũng bắt đầu ở Mỹ hoặc Anh, ví dụ như “Ngày thứ hai đen tối” năm 1987.
Hong Kong (một trung tâm tài chính lớn khác) là lãnh thổ đầu tiên bị tấn công vào ngày 19/10/1987 và vụ sụp đổ này lan sang phương Tây tới Mỹ, làm chỉ số Dow Jones rơi 22%.
Như nhiều vụ sụp đổ khác, tin tức đã có một vụ sụp đổ diễn ra ở đâu đó thường là đủ để mọi người ở các nơi khác hoảng sợ, làm họ bán tống bán tháo cổ phiếu và lại làm vụ đổ vỡ thêm trầm trọng hơn.

… Và thời bùng nổ

Thị trường chứng khoán đi theo một chu kỳ “bùng nổ và suy thoái” điển hình, với những thời kỳ tăng trưởng phi thường rồi đến những vụ đổ vỡ như đã được nói đến ở trên.
Một ví dụ cho hiện tượng này thường được biết đến với cái tên “Thập kỷ 20 ồn ã”. Trước Ngày thứ năm đen tối, thập kỷ 20 là thời kỳ của thịnh vượng và tăng trưởng phi thường.
Lính tráng trở về nhà với túi tiền rủng rỉnh sau Chiến tranh thế giới thứ nhất. Việc kinh doanh mở rộng trên quy mô lớn khiến giá cổ phiếu Mỹ tăng mạnh, đầu tư lớn của Mỹ ở Châu Âu thời hậu chiến cũng giúp kinh tế Anh, Pháp và Đức phát triển.
Không may, nhiều nhà kinh tế hiện nay tin rằng tín dụng tràn ngập trong thập kỷ 20 là lý do chính gây ra Đại khủng hoảng.
Một câu chuyện “bùng nổ và suy thoái” tương tự là bong bóng công nghệ cuối những năm 90. Nhờ sự bùng nổ của nền kinh tế Internet, chỉ số công nghệ NASDAQ tăng gấp đôi chỉ sau một năm, lên 5.058,62 điểm.
Sự tăng trưởng này phần nhiều là do ảo tưởng, dựa trên đầu cơ và hy vọng thay vì lợi nhuận thực. Các công ty thấy giá cổ phiếu của mình tăng mạnh chỉ bằng cách đơn giản thêm chữ “e” vào đầu hoặc “.com” vào cuối tên công ty.
Ý nghĩ đơn giản cho rằng công ty nào cũng có phần trong nền kinh tế Internet mới mẻ khiến giá cổ phiếu của chúng lên cao chạm trời. Rút cục bong bóng công nghệ cũng vỡ vào đầu những năm 2000.
Thị trường không hề trừu tượng hay độc lập. Trong nhiều trường hợp, chúng chỉ là sự tương tác vô thức giữa con người với nhau và có thể biến động bất kỳ lúc nào vì những ý thích, lo ngại hay hy vọng của chính con người.

 

Hiện nay, do các biến động lớn trong kinh tế thế giới, do tác động của tiến bộ khoa học kỹ thuật và với mong muốn của Chính phủ các nước trong việc tăng cường vai trò của TTCK đối với đời sống kinh tế, TTCK đã được tạo mọi điều kiện phát triển. Các chính sách của Chính phủ các nước đã góp phần thúc đẩy sự hình thành và phát triển của các thị trường chứng khoán, thể hiện:

Thứ nhất, Chính phủ các nước đã cải cách mạnh mẽ hệ thống thuế nhằm kích thích tiết kiệm và đầu tư. Các khoản thuế đối với thu nhập từ đầu tư cổ phiếu giảm đáng kể đã khuyến khích các doanh nghiệp tăng vốn chủ sở hữu. Với các doanh nghiệp Hàn Quốc, tỷ lệ nợ trên vốn chủ sở hữu đã giảm từ khoảng 500% xuống còn 250% vào cuối những năm 90. Chính phủ Anh và Mỹ cũng đã khuyến khích quá trình sát nhập các doanh ngiệp làm tăng khả năng cạnh tranh và tính hiệu quả của chính các doanh nghiệp này. Điều này cũng đang được thực hiện ở nước ta, khi trong thời gian gần đây các đề án tái cấu trúc, mua bán sát nhập các tổng công ty, các ngân hàng, các công ty chứng khoán… liên tục diễn ra. Ở nhiều nước, số lượng các công ty cổ phần mới ngày càng gia tăng.
Đồng thời với các chính sách khuyến khích phát triển, Chính phủ các nước cũng tăng cường quản lý Nhà nước đối với các hoạt động của thị trường. Ủy ban chứng khoán – Cơ quan quản lý nhà nước về chứng khoán và thị trường chứng khoán được thành lập. Ví dụ, Ủy ban chứng khoán Pháp được thành lập năm 1967, Ủy ban chứng khoán Anh được thành lập năm 1968, UBCK Thái Lan được thành lập năm 1992. Còn UBCK Nhà nước Việt Nam được thành lập ngày 28 tháng 11 năm 1996 theo nghị định 75/cp của Chính phủ Việt Nam, trước khi Thị trường chứng khoán Việt Nam (TTCKVN) chính thức đi vào hoạt động vào năm 2000 với việc vận hành sàn giao dịch chứng khoán (SGDCK) TP.HCM vào ngày 20/7/2000 và SGDCK Hà Nội vào ngày 8/3/2005. ban đầu UBCK là một Ủy ban thuộc điều hành của Chính phủ sau đó tới Ngày 19 tháng 2 năm 2004, Chính phủ đã ban hành nghị định 66/2004/NĐ chuyển Ủy ban Chứng khoán Nhà nước vào Bộ Tài chính.
Hệ thống các văn bản pháp luật cũng được hoàn thiện hơn để đảm bảo quyền lợi cho các nhà đầu tư và chống lại các hành vi phi đạo đức trong kinh doanh chứng khoán.

Thứ hai, một loạt các công cụ tài chính mới được tạo ra nhằm đáp ứng tốt hơn các nhu cầu của nhà phát hành và các nhà đầu tư. Các công cụ này được hình thành từ việc lai ghép các công cụ sẵn có, nhằm tận dụng các lợi thế về pháp lý hoặc kết hợp giữa các lợi thế của vốn chủ sở hữu với lợi thế của vốn vay. Điều này không chỉ giúp các DN có thể huy động vốn với chi phí thấp hơn, dễ thay đổi cơ cấu vốn đầu tư, mà còn tạo nhiều cơ hội lựa chọn hơn cho các nhà đầu tư. Hàng loạt các công cụ phòng vệ cũng xuất hiện như các hợp đồng quyền chọn, hợp đồng kỳ hạn và các công cụ dẫn xuất mới. Các công cụ này vừa làm giảm rủi ro cho các nhà đầu tư, vừa tăng tính lỏng tài sản, trên cơ sở đó làm giảm chi phí cho nhà phát hành.

Thứ ba, các nước tiến hành thành lập các thị trường giao dịch qua quầy với các yêu cầu niêm yết ít chặt chẽ hơn nhằm tạo điều kiện cho các công ty mới và các DN có tầm cỡ trung bình có thể tham gia thị trường. Bởi vậy, cơ hội huy động vốn cho các DN cũng như khả năng đa dạng hóa danh mục đầu tư cho các nhà kinh doanh chứng khoán được tăng đáng kể.

Thứ tư, TTCK đã có sự đổi mới mạnh mẽ về kỹ thuật. Các thị trường được tin học hóa triệt để, đồng thới với các cải cách về nghiệp vụ giao dich, nghiệp vụ lưu ký và thanh toán, cải cách về tiền hoa hồng… đã làm giảm chi phí trung gian, giảm thời gian và tăng khối lượng giao dịch. Điều này được đặc biệt ghi nhận qua TTCK London qua cải cách có tên gọi “Big Bang” năm 1986. Nhờ những tiến bộ của khoa học kỹ thuật đó, TTCK ngày nay phát triển mạnh mẽ với mức độ quốc tế hóa ngày càng cao. Sự thống nhất Châu Âu đã hợp nhất hàng loạt các TTCK, tạo cơ hội mới cho việc phát triển thị trường . Vào ngày 1 tháng 1 năm 1999 tỷ lệ hối đoái giữa Euro và các đơn vị tiền tệ quốc gia được quy định không thể thay đổi và Euro trở thành tiền tệ chính thức. Ngay ngày hôm sau, ngày 2 tháng 1, các thị trường chứng khoán tại Milano (Ý), Paris (Pháp) và Frankfurt am Main (Đức) đã định giá tất cả các chứng khoán bằng Euro.

Thứ năm, thành lập thị trường các công cụ dẫn suất. Các thị trường dẫn suất này được thành lập để tạo điều kiện cho các tổ chức kinh tế và các nhà kinh doanh chứng khoán có khả năng phòng ngừa các rủi ro liên quan đến biến động giá cổ phiếu, về lãi suất và tỷ giá hối đoái, đồng thời làm tăng tính khả dụng trên thị trường giao ngay, thông qua khả năng chênh lệch giá.

Thứ sáu, đẩy mạnh sự tham gia của các trung gian tài chính trên TTCK.

Thứ bảy, sự hiện đại hóa thị trường vay nợ của chính phủ tạo điều kiện cho Nhà nước có thể tăng cường huy động các nguồn tài chính trên thị trường với các chi phí thấp hơn, tránh nguy cơ lạm dụng phát hành để tài trợ cho ngân sách và tạo điều kiện thực hiện chính sách tiền tệ.

Với những cải cách đó, TTCK đã trở thành một kênh dẫn vốn quan trọng, một thực thể không thể thiếu được đối với nền kinh tế hiện đại.

 

-Thân –

Nguyễn Văn Nguyên – Chuyên viên Tư vấn Chứng khoán Cao cấp.

Danh mục Tài liệu tham khảo:

1/Đại học Kinh tế Quốc dân, Giáo trình Thị trường chứng khoán, NXB Tài Chính 2006.
2/Trường ĐH Ngoại thương, Giáo trình Thị trường chứng khoán, NXB Giáo dục 2005.
3/Học viện Ngân hàng, Giáo trình Thị trường chứng khoán, NXB Thống kê 2003.
4/ Frederic S. Minshkin, Tiền tệ, ngân hàng và thị trường tài chính, NXB Khoa học kỹ thuật 2002.

CÁC TIN LIÊN QUAN

Đối tác

Gọi ngay
Messenger
Zalo chát
Mở tài khoản
Góp ý