DANH MỤC

Mobile / Zalo: 0912 842 224
Đầu tư Cổ phiếu Group Facebook

Cập nhật thị trường Trái phiếu tuần từ 27/08/2018 – 31/08/2018

Lượt xem: 1,962 - Ngày:
Chia sẻ

LỢI SUẤT TRÁI PHIẾU

Cập nhật thị trường Trái phiếu

Lợi suất trái phiếu không thay đổi nhiều trong tuần trước với đường cong lợi suất gần như duỗi thẳng.

Cụ thể lợi suất từng kỳ hạn như sau:

  • Lợi suất kỳ hạn 1 năm là 4,13% (tăng 0,07% so với tuần liền trước và tăng 0,56% so với đầu năm).
  • Lợi suất kỳ hạn 2 năm là 4,31% (tăng 0,05% so với tuần liền trước và tăng 0,50% so với đầu năm).
  • Lợi suất kỳ hạn 3 năm là 4,41% (tăng 0,01% so với tuần liền trước và tăng 0,49% so với đầu năm).
  • Lợi suất kỳ hạn 5 năm là 4,68% (tăng 0,01% so với tuần liền trước và tăng 0,4% so với đầu năm).
  • Lợi suất kỳ hạn 7 năm là 4,84% (tăng 0,08% so với tuần liền trước và tăng 0,31% so với đầu năm).
  • Lợi suất kỳ hạn 10 năm là 5,1% (tăng 0,01% so với tuần liền trước và giảm 0,04% so với đầu năm).
  • Lợi suất kỳ hạn 15 năm là 5,32% (giảm 0,01% so với tuần liền trước và giảm 0,28% so với đầu năm)
  • Lợi suất kỳ hạn 20 năm là 5,61% (giảm 0,01% so với tuần liền trước và giảm 0,4% so với đầu năm)
  • Lợi suất kỳ hạn 30 năm là 6% (giữ nguyên so với tuần liền trước và giảm 0,49% so với đầu năm)*

Trên đây chỉ là lợi suất mang tính tham khảo (lợi suất trung bình giữa mua và bán), đặc biệt là lợi suất kỳ hạn 15 năm, 20 năm và 30 năm. Chênh lệch giữa lợi suất mua/bán là 0,2-0,24% (giữ nguyên so với 1 tuần trước đó) với chênh lệch ở kỳ hạn trung cao hơn.

Cập nhật thị trường Trái phiếu

Cập nhật thị trường Trái phiếu

Lợi suất thực tế thường cao hơn lợi suất tiêu chuẩn khoảng 0,04-0,14%. Tuy nhiên trong tuần trước lợi suất thực tế tiến sát hơn đến lợi suất trung bình so với những tuần trước (tiến gần hơn 0,1%), cho thấy NĐT có xu hướng bán nhiều hơn mua nhưng tâm lý chung đã có sự thay đổi và lợi suất trái phiếu có lẽ sẽ ngừng tăng. Lợi suất trái phiếu VDB tăng với mức tăng ít hơn lợi suất trái phiếu kho bạc; từ đó chênh lệch bình quân giữa 2 lợi suất này giảm 0,01% còn 0,57%. Mức độ biến động (đo bằng độ lệch chuẩn cho 22 ngày giao dịch gần nhất) giảm sau khi đạt mức cao kỷ lục trong một tuần trước, cho thấy lợi suất trái phiếu có lẽ sẽ còn tăng nhưng nhiều khả năng sẽ không còn biến động mạnh.

Tỷ giá đã tăng liên tục và vượt mục tiêu 2% của NHNN (và nhiều khả năng còn vượt qua ngưỡng tâm lý 3%), trong khi đó lạm phát đến cuối năm có khả năng ở mức 4,5-5%. Do đó những biến động của lợi suất trái phiếu là sự điều chỉnh hợp lý. Chúng tôi điều chỉnh dự báo đến cuối năm với lợi suất tăng tiếp khoảng 0,25-1%: kỳ hạn 2 năm sẽ tăng 0,25-0,5% lên 4,5-4,75%; kỳ hạn 5 năm sẽ tăng 0,55-0,8% lên 5,25-5,5%; kỳ hạn 10 năm sẽ tăng 0,8-1% lên 5,9-6,1%. Theo đó lợi suất kỳ hạn dài nhiều khả năng sẽ tăng trong những tháng tới.

THỊ TRƯỜNG THỨ CẤP

Cập nhật thị trường Trái phiếu

GTGD trên thị trường trái phiếu trong tuần trước gần như giữ nguyên với tổng GTGD ở vào 8,1 nghìn tỷ đồng, giảm 0,2 nghìn tỷ đồng so với tuần trước đó (giảm 3%) và bằng 8% tổng giá trị danh mục tự doanh.

Cụ thể:

  • GTGD của kỳ hạn dưới 2 năm là 1,7 nghìn tỷ đồng, giảm 17% so với tuần trước đó.
  • GTGD của kỳ hạn 2-5 năm là 3,05 nghìn tỷ đồng, tăng 13% so với tuần trước đó.
  • GTGD của kỳ hạn 5-10 năm là 2,05 nghìn tỷ đồng, tăng 34% so với tuần trước đó.
  • GTGD của kỳ hạn trên 10 năm là 1,3 nghìn tỷ đồng, giảm 37% so với tuần trước đó.

Giá trị hợp đồng repo còn hiệu lực trong tuần trước giảm 3,5 nghìn tỷ đồng, tương đương 4% và giảm 68,3 nghìn tỷ đồng, tương đương 42% so với đầu năm. Điều này có nghĩa là các NHTM đã bán ròng trái phiếu tự doanh. NĐT trong nước có xu hướng giảm danh mục tự doanh khi lãi suất tăng, thể hiện ở biểu đồ dưới đây.

Cập nhật thị trường Trái phiếu

Tỷ lệ GTGD trên tổng giá trị trái phiếu trong danh mục tự doanh cho thấy NĐT trong nước tỏ ra không lạc quan và tiếp tục bán ra danh mục trái phiếu của mình. Đồng thời GTGD nói chung cũng giảm. Chúng tôi kỳ vọng hoạt động giao dịch sẽ chỉ hồi phục sau khi lợi suất trở về mặt bằng bình thường và cho đến khi đó tỷ lệ GTGD/tổng giá trị danh mục tư doanh vẫn ở dưới 12%.

Cập nhật thị trường Trái phiếu

Danh mục tự doanh trái phiếu chính phủ của NĐTNN trong tuần ở vào 44,4 nghìn tỷ đồng (giảm 0,3 nghìn tỷ đồng), không có dấu hiệu bán tháo ở NĐTNN nhờ chỉ số DXY đã giảm xuống dưới mốc 95 và kết thúc tuần ở 94,64. Chúng tôi cũng không thấy có dấu hiệu cho thấy NĐTNN muốn mở rộng danh mục trái phiếu của mình trong bối cảnh khối này giảm giao dịch. Nói chung, NĐTNN đã giảm 6,51 nghìn tỷ đồng giá trị danh mục từ đầu năm (giảm 12,8%); ít hơn mức giảm của NĐT trong nước (chủ yếu là không tái đầu tư sau khi trái phiếu đáo hạn thay vì bán ra trái phiếu) nhưng xu hướng chung vẫn là giảm nắm giữ.

NĐTNN quyết định mua vào hay bán ra sẽ ảnh hưởng nhiều hơn đến lợi suất so với NĐT trong nước. Bên cạnh đó, NĐTNN có xu hướng ra quyết định mua bán dựa trên biến động của chỉ số DXY (nhưng không phải lúc nào cũng vậy). Do vậy nếu chỉ số DXY tăng tiếp thì lợi suất có thể cũng sẽ tăng theo và NĐTNN có thể sẽ bán ra mạnh hơn, cùng với xu hướng bán ra của NĐT trong nước. Xu hướng đề cập trên đây chỉ liên quan đến danh mục tự doanh trái phiếu chính phủ của khối ngoại và không bao gồm danh mục đầu tư (mua qua đấu thầu và nắm đến khi đáo hạn). Vì vậy khối lượng trái phiếu chính phủ do khối ngoại nắm giữ thực tế có thể cao hơn nhiều.

Cập nhật thị trường Trái phiếu

THỊ TRƯỜNG SƠ CẤP

Cập nhật thị trường Trái phiếu

Trong các phiên đấu thầu TPCP tuần trước, đã có 1,8 nghìn tỷ đồng được bán trên tổng khối lượng gọi thầu là 5,0 nghìn tỷ đồng, theo đó tỷ lệ thành công là 36,0% (trong tuần trước là 74,5%). Tổng khối lượng TPCP đã phát hành từ đầu năm là 104,7 nghìn tỷ đồng. Với 27 nghìn tỷ đồng TPCP đã đáo hạn từ đầu năm, tổng khối lượng TPCP đang lưu hành tăng thêm 77,7 nghìn tỷ đồng, tương đương tăng 9,6% so với đầu năm lên 889,7 nghìn tỷ đồng. Mức tăng 9,6% được cho là tương đương với tăng trưởng tín dụng từ đầu năm đến hiện tại, cho thấy sự cân bằng của cung cầu thị trường.

Bộ Tài Chính đã nâng lãi suất trúng thầu trong tuần trước, nhưng mức tăng chỉ là 0,03%, nhưng vẫn thấp hơn 0,48% so với lãi suất trên thị trường thứ cấp. Nếu Bộ Tài chính duy trì mức tăng lãi suất trúng thầu là 0,03% mỗi tuần và lãi suất thị trường không đổi, khi đó sẽ mất 16 tuần (hay gần 4 tháng) thì lãi suất trúng thầu sẽ cân bằng với lãi suất trên thị trường thứ cấp. Chênh lệch giữa lãi suất trúng thầu so với lãi suất trên thị trường thứ cấp ở mức 0,43%-0,45% là một vấn đề đáng lo ngại.

Tổng cộng 67,4 nghìn tỷ đồng trúng thầu trong tổng số 104,7 nghìn tỷ đồng TPCP đã phát hành từ đầu năm được bán với lãi suất thấp hơn lãi suất thị trường. Điểm ngạc nhiên là con số này tương đương với mức giảm của danh mục tự doanh TPCP của các ngân hàng từ đầu năm. Do đó, chúng tôi cho rằng phần lớn trong số 67,4 nghìn tỷ đồng TPCP trên được các đơn vị chính phủ mua thông qua đấu thầu, trong khi đó các ngân hàng thương mại mua TPCP cho danh mục đầu tư qua thị trường thứ cấp.

Cập nhật thị trường Trái phiếu

Cập nhật thị trường Trái phiếu

Trong tuần trước cũng có 0,6 nghìn tỷ đồng trái phiếu do Ngân hàng Chính sách xã hội (VBSP) phát hành được bán và tổng cộng đã có 1,63 nghìn tỷ đồng trái phiếu VBSP phát hành thành công từ đầu năm. Và giá trị trái phiếu VSPB đáo hạn là 5,37 nghìn tỷ đồng tính từ đầu năm. Tuy nhiên trái phiếu VBSP thường thanh khoản rất kém trên thị trường, với tổng khối lượng trái phiếu đang lưu hành là 35,6 nghìn tỷ đồng và gần như không có giao dịch trên thị trường thứ cấp. Không có phiêu đấu thầu trái phiếu do Ngân hàng Phát triển Việt Nam (VDB) phát hành từ đầu năm đến nay, trong khi đó có 6,10 nghìn tỷ đồng TP VDB đáo hạn. Tổng khối lượng VDB còn hiệu lực hiện tại là 129,19 nghìn tỷ đồng với khối lượng giao dịch bình quân thực tế là 1,58 nghìn tỷ đồng.

Tổng khối lượng TPCP đang lưu hành hiện là 887,9 nghìn tỷ đồng (không bao gồm phát hành riêng lẻ cho Bảo hiểm xã hội), với tổng khối lượng phát hành mới từ đầu năm là 104,7 nghìn tỷ đồng. Dù điều kiện thị trường không còn thuận lợi như trước, HSC vẫn dự báo chính phủ sẽ hoàn thành kế hoạch phát hành TPCP cả năm ban đầu là 200 nghìn tỷ đồng. Theo đó, khối lượng phát hành mới trong những tháng còn lại năm nay sẽ là 95,3 nghìn tỷ đồng.

THỊ TRƯỜNG TIỀN TỆ

Cập nhật thị trường Trái phiếu

Lãi suất thị trường tiền tệ tiếp tục giảm 0,02-0,43% do thị trường “đã phản ứng thái quá” với các vấn đề thanh khoản.

Theo kỳ hạn, biến động lãi suất thị trường tiền tệ trong tuần trước như sau.

  • Lãi suất qua đêm là 3,90% (giảm 0,43% trong tuần trước và tăng 2,53% so với đầu năm).
  • Lãi suất kỳ hạn 1 tuần là 4,15% (giảm 0,18% trong tuần trước và tăng 2,58% so với đầu năm).
  • Lãi suất kỳ hạn 2 tuần là 4,30% (giảm 0,10% trong tuần trước và tăng 2,29% so với đầu năm).
  • Lãi suất kỳ hạn 1 tháng là 4,36% (giảm 0,04% trong tuần trước và tăng 1,63% so với đầu năm).
  • Lãi suất kỳ hạn 3 tháng là 4,51% (giảm 0,06% trong tuần trước và tăng 0,04% so với đầu năm).
  • Lãi suất kỳ hạn 6 tháng là 4,57% (giảm 0,02% trong tuần trước và giảm 0,13% so với đầu năm).

Để minh họa thực trạng thanh khoản của hệ thống ngân hàng, chúng tôi sử dụng 3 biểu đồ sau đây:

  • Bơm/hút ròng của NHNN qua thị trường mở và lãi suất qua đêm: Thanh khoản tức thời của các ngân hàng được thể hiện tốt nhất qua mức bơm/hút ròng của NHNN và tiếp đó là qua lãi suất qua đêm liên ngân hàng. Từ biểu đồ có thể thấy rằng các ngân hàng đã phản ứng thái quá với vấn đề thanh khoản và nâng lãi suất qua đêm lên quá cao. Tuy nhiên, nhờ vậy mà tỷ giá USD/VND tránh được xu hướng tiếp tục tăng dưới áp lực của thị trường thế giới.
  • Thanh khoản ngân hàng và lãi suất thị trường tiền tệ kỳ hạn 1 tuần: Biến động của lãi suất liên ngân hàng kỳ hạn 1 tuần phụ thuộc vào 4 yếu tố: Lãi suất hợp đồng R.Repo trên thị trường mở (lãi trần), lãi suất tín phiếu NHNN kỳ hạn 1 tuần (lãi sàn), khối lượng hợp đồng R.Repo còn hiệu lực trên thị trường mở (dấu hiệu cho thấy sự thiếu vốn) và giá trị tài sản ròng trên thị trường liên ngân hàng (tổng tài sản liên ngân hàng trừ đi khối lượng cho vay của NHNN). Nếu thị trường thiếu vốn, lãi suất kỳ hạn 1 tuần sẽ biến động tùy theo mức độ thiếu vốn của thị trường. Nếu thị trường không ở trong tình trạng thiếu vốn (tức là các ngân hàng không cần phải vay vốn từ NHNN), lãi suất kỳ hạn 1 tuần trên thị trường khi đó sẽ phụ thuộc vào sự dồi dào của nguồn tài sản ngân hàng. Thậm chí từ biểu đồ này có thể thấy rằng các ngân hàng đã phản ứng thái quá với vấn đề thiếu vốn, tuy nhiên tình trạng thiếu vốn vẫn tồn tại ở một số ngân hàng, vì vậy lãi suất tăng không đáng kể.

Cập nhật thị trường Trái phiếu

  • Thanh khoản ngân hàng và lãi suất thị trường tiền tệ kỳ hạn 3 tháng: Lãi suất liên ngân hàng kỳ hạn 3 tháng phụ thuộc phần lớn vào sự dồi dào về vốn của các ngân hàng, và từ biểu đồ thấy rằng mặt bằng lãi suất kỳ hạn 3 tháng hiện tại phản ánh đúng vấn đề thanh khoản thực tế của thị trường.

Nhìn chung, thanh khoản ngân hàng đã được cải thiện trong tuần trước và phản ảnh biến động của lãi suất trên thị trường tiền tệ. Tuy nhiên, thanh khoản vẫn không đủ để kéo lãi suất giảm đáng kể, và nếu thanh khoản hệ thống không được cải thiện hơn nữa, lãi suất sẽ tiếp tục tăng. Chúng tôi dự báo lãi suất thị trường tiền tệ vẫn sẽ ở mức cao, với lãi suất qua đêm dao động trên 4% cho đến khi thị trường ngoại hối ổn định hơn.

TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI

Cập nhật thị trường Trái phiếu

Tỷ giá USD/VND liên ngân hàng có vẻ ổn định và dao động quanh mức 23.300 (đóng cửa tại 23.299, giảm 3 đồng so với tuần trước đó), trong khi đó lãi suất thị trường tự do là 23.500 (giảm 65 đồng so với tuần trước đó) do chỉ số USD (DXY) tiếp tục giảm và đóng cửa tại 94,64 trong tuần trước. Chỉ số DXY giảm mạnh trong tuần trước không ảnh hưởng đến tỷ giá USD/VND chủ yếu do tỷ giá USD/VND đã không tăng cao khi chỉ số DXY tiến sát mốc 97 điểm.

Thị trường ổn định, tâm lý đầu cơ của NĐT không còn và tỷ giá trên thị trường tự do giảm về 23.500, thu hẹp chênh lệch tỷ giá trên hai thị trường xuống mức thấp trong 3 tuần là 201 đồng. NHNN không can thiệp vào thị trường trong tuần trước, do tỷ giá liên ngân hàng thấp hơn tỷ giá bán ra của NHNN. Từ đầu năm đến hiện tại, NHNN đã bán ra 3,05 tỷ USD để ổn định tỷ giá. Đồng VND chịu ảnh hưởng nhiều nhất bởi biến động của chỉ số DXY. Do đó, rủi ro lớn nhất đối với tiền đồng là khi DXY tiếp tục tăng và vượt mốc 97 điểm. Trước đó khi DXY phá vỡ ngưỡng này trong năm 2015 và lập lại trong năm 2016, tiền đồng đã lần lượt mất giá 5% và 2% trong hai năm này.

Chúng tôi dự báo tỷ giá USD/VND sẽ vào khoảng 23.300 vào cuối năm nay nếu DXY duy trì dưới 95 điểm, và dự báo tỷ giá sẽ tăng vượt 23.500 nếu DXY bứt phá trên 97 điểm (nếu phá vỡ mốc 97 điểm, DXY thường sẽ sớm tăng lên 100 điểm sau đó). Chúng tôi cho rằng để bình ổn tỷ giá, yêu cầu sự can thiệp từ NHNN sẽ ít hơn và lượng USD bán ra cần thiết có thể là 6-10 tỷ USD từ dự trữ ngoại hối, bao gồm cả 3,0 tỷ USD đã bán.

Cập nhật thị trường Trái phiếu

Nguồn: HSC

CÁC TIN LIÊN QUAN

Đối tác

Gọi ngay
Messenger
Zalo chát
Mở tài khoản
Góp ý