Sự phát triển của y học hiện đại đã cho ra đời một công nghệ điều trị mới, đó là y học tái tạo. Khác với y học đương đại là một nền y học điều trị cưỡng bức, y học tái tạo giúp cơ thể bổ sung, huy động, kích thích tế bào gốc nội sinh để tự sửa chữa, thay thế, khôi phục và tái tạo. Công nghệ tế bào gốc là một công nghệ mới và có nhiều tiềm năng phát triển, tuy nhiên tại Việt Nam vẫn tồn tại hai hạn chế lớn đó là nguồn cung tế bào còn ít và chi phí điều trị tế bào gốc còn khá cao so với thu nhập chung.
Tế bào gốc là gì?
Tế bào gốc là các tế bào còn non trẻ và có khả năng biệt hoá thành nhiều loại tế bào khác để thay thế cho các tế bào khác như tế bào gan, tế bào máu, tế bào thần kinh bị mất đi do già và chết tự nhiên hay do chấn thương vì nhiều nguyên nhân khác nhau.
Công nghệ tế bào gốc có thể điều trị được nhiều vấn đề nan y bao gồm: tổn thương tủy sống, đái tháo đường, bệnh Parkinson, bệnh Alzheeimer’s, các bệnh tim mạch, đột quị, bỏng, ung thư và viêm xương khớp.
Lịch sử của điều trị bằng tế bào gốc
Việc nghiên cứu phát triển bom nguyên tử vào những năm 1940 đã mang lại thảm họa chưa từng có với 2 thành phố Hiroshima và Nagasaki của Nhật Bản, nhưng đồng thời cũng kích thích làn song nghiên cứu y sinh để tìm hiểu về tác động của bức xạ và phát triển phương pháp điều trị bằng phóng xạ. Các nghiên cứu này cuối cùng đã dẫn đến sự phát triển của việc cấy ghép tủy xương, phương pháp này đã cứu được vô số sinh mạng và là liệu pháp tế bào gốc được sử dụng rộng rãi nhất hiện nay.
Ca ghép tế bào gốc tủy xương đầu tiên trên thế giới được thực hiện vào năm 1956. Đến nay, công nghệ này đã phát triển vượt bậc, tế bào gốc không chỉ có thể được lấy từ tủy xương mà còn từ nhiều bộ phận như răng trẻ em, cuống rốn trẻ sơ sinh, cơ bắp và mỡ trong cơ thể. Trong đó, việc điều trị bằng tế bào gốc máu cuống rồn là ưu việt nhất. Ưu điểm lớn nhất của máu cuống rốn đó là sự non trẻ của các tế bào gốc ở đây. Nếu như trong điều trị bằng tủy xương hay máu ngoại vi yêu cầu người hiến tặng phải có cấu trúc tế bào giống với bệnh nhân, thường là người trong gia đình, thì tế bào gốc máu cuống rốn có thể thích nghi với nhiều loại bệnh nhân và khả năng xảy ra biến cố mô ghép tấn công ký chủ (Graft Versus Host Disease) là rất thấp.
Tiềm năng tăng trưởng của thị trường tế bào gốc
Thị trường tế bào gốc toàn cầu được dự báo sẽ tăng trưởng từ 8,3 tỷ USD năm 2010 lên gần 32 tỷ USD năm 2018. Trong đó thị trường Châu Á – Thái Bình Dương được dự báo sẽ tăng trưởng nhanh nhất (26.2%/năm).
Tại Việt Nam, ca ghép tế bào gốc đầu tiên để điều trị cho bệnh nhân bị bệnh máu được Bệnh viện Truyền máu – Huyết học Tp.HCM tiến hành từ năm 1995. Tuy nhiên trong 10 năm qua trên toàn quốc mới chỉ có khoảng 400 ca ghép được thực hiện. Có 2 lý do cho hiện tượng này:
Thiếu nguồn cung tế bào gốc
Đơn cử mỗi ngày ở BV Phụ sản Hà Nội chỉ có 4 – 5 ca sinh yêu cầu lưu trữ mẫu tế bào máu cuống rốn trên tổng số hàng trăm ca sinh. Nguyên nhân là chi phí cao của việc lưu trữ tế bào gốc. Hiện tại, chi phí trung bình để lưu máu cuống rốn trong ngân hàng tế bào gốc là khoảng 25 triệu đồng/mẫu trong năm đầu tiên và 2,5 triệu đồng cho mỗi năm sau đó.
Chi phí thực hiện điều trị bằng tế bào gốc cao
Để thực hiện 1 ca ghép tế bào gốc, nếu trừ hết các khoản hỗ trợ từ bảo hiểm y tế (khoảng 60%), người bệnh vẫn phải chi trên 200 triệu đồng, đây là khoản tiền lớn với nhiều gia đình Việt Nam.
Tuy nhiên trong tương lai gần, nhu cầu lưu trữ tế bào gốc sẽ tăng lên khi ngày càng nhiều gia đình đề cao tầm quan trọng của việc này để phục vụ cho việc chữa trị trong tương lai, Thu nhập bình quân gia tăng và việc chi phí mua tế bào gốc tại Việt Nam đang ở mức rẻ so với thế giới (khoảng 7.000-8.000 USD/mẫu so với 50.000 USD/mẫu trên thế giới) sẽ là yếu tố thúc đẩy thị trường tế bào gốc phát triển
Nguồn: Rongviet Research